Kỹ thuật nội soi trong y học
Ngày đăng: 03/02/2018
KỸ THUẬT NỘI SOI TRONG Y HỌC
Trăm nghe không bằng một thấy, việc nhìn thấy bên trong cơ thể người bệnh là mơ ước của các thầy thuốc từ thời xa xưa. Nhìn thấy trực tiếp những thương tổn bên trong cơ thể bệnh nhân thì thầy thuốc có thể chẩn đoán bệnh chính xác hơn và điều trị hiệu quả hơn. Tề Thiên Đại Thánh có 72 phép thần thông nên có thể dễ dàng chui vào bụng đối phương để phá phách nhưng con người thì phải qua hàng ngàn năm mơ ước, lao động sáng tạo, khó khăn lắm mới có thể chế tạo được thiết bị nội soi để nhìn vào và chạm vào bên trong cơ thể con người với mục đích cứu người.
Nội soi là gì? Nội soi là động tác đưa các thiết bị vào bên trong một vật thể để có thể nhìn thấy và can thiệp những mục tiêu bên trong vật thể đó. Trong kỹ nghệ, vật thể đó là các máy móc, còn trong y học vật thể đó là cơ thể người hay động vật. Mầm móng đầu tiên cho ý tưởng nội soi y học là dụng cụ banh trực tràng được Hippocrates mô tả năm 460-377 trước CN. Để quan sát bên trong các hốc của cơ thể phải nhìn qua một cấu trúc ống đưa vào các hốc đó với ánh sáng chiếu được vào nơi muốn quan sát. Nhiều tác giả cổ xưa đã tìm cách hội tụ ánh sáng chiếu vào nơi quan sát: ánh sáng phản chiếu bằng các loại gương từ áng sáng tự nhiên, ánh sáng đèn dầu. Cách chiếu sáng này rất yếu chỉ cho phép nhìn thấy một cách lờ mờ. Mãi cho đến 1878, phát minh bóng đèn điện dây tóc của Edison đã giải quyết vấn đề khó khăn trong chiếu sáng cho nội soi. Ống soi đầu tiên dùng bóng điện chiếu sáng được Max Nitze chế tạo để soi bàng quang vào năm 1879. Từ đó cho đến trước 1928 là thời kỳ dùng ống soi cứng thẳng do ánh sáng chỉ dẫn truyền qua đường thẳng. Ống soi thẳng chỉ tiếp cận được một khoảng sâu nhất định như soi bọng đái, dạ dày, trực tràng. Phát minh sợi quang học của Baird 1928 giúp cho các nhà nội soi có thể nhìn qua đường cong với các ống soi mềm uốn cong được theo ý muốn để uốn lượn theo độ cong của cơ thể tiến sâu hơn ranh giới dạ dày, bọng đái, trực tràng.
Phát minh áng sáng lạnh của Fourestier năm 1952 cải thiện hơn nữa chất lượng chiếu sáng giúp quan sát nội soi rõ hơn.
Sau những năm 1980, sự phát triển của công nghệ video, camera và mini camera đã nâng cao chất lượng hình ảnh nội soi rất nhiều, không phải dán mắt vào ống soi, giúp cho nghành can thiệp qua nội soi cũng như phẫu thuật nội soi phát triển mạnh.
Các loại thiết bị nội soi
Nội soi cứng: Là loại sử dụng ống cứng để đưa vào cơ thể. Loại này không uống cong theo độ cong của các cơ quan trong cơ thể nên ít dùng trong soi ống tiêu hoá.
Nội soi mềm dùng sợi quang: Ống soi chứa hàng chục nghìn sợi quang học liti mềm để dẫn truyền áng sáng chiếu vào và dẫn truyền hình ảnh đến camera đặt ở đầu ngoài ống soi. Đây là loại thường dùng trong nội soi, nhất là soi ống tiêu hoá. Ống soi có thể điều khiển uống cong theo chiều cong của các cơ quan để tiến sâu vào trong lòng các cơ quan.
Nội soi mềm video: Công dụng giống như loại trên nhưng không dùng sợi quang mà sử dụng mini camera đặt tại đầu ống soi. Đây là ống soi mềm thế hệ mới cho chất lượng hình ảnh tốt hơn loại sợi quang.
Nội soi mềm có bóng: Là hệ thống soi gồm có một ống soi mềm lồng trong một ống bao, có một bóng ở đầu ống bao (bóng đơn) hoặc một bóng ở đầu ống bao và một bóng ở đầu ống soi (bóng đôi). Các bóng này có thể bơm căng và xả xẹp từng lúc để kéo rút ruột lại từng đoạn giúp ống soi tiến vào ruột một cách chủ động và hiệu quả.
Nội soi viên nang: Một thiết bị tinh vi gồm có camera, đèn chiếu sáng, pin, bộ vi xử lý nhận và phát tín hiệu hình ảnh đặt gọn trong một viên nang giống như viên thuốc con nhộng. “Viên thuốc” này sau khi được bệnh nhân nuốt vào sẽ ghi hình những nơi nó đi qua trong đường tiêu hoá và phát tín hiệu ra cho một máy thu được bệnh nhân đeo ở bên ngoài.
Nơi nào nội soi có thể tiếp cận
- Nội soi trong lòng cơ quan rỗng: Soi vào trong lòng các hốc, ống có sẵn trong cơ thể qua các lỗ tự nhiên của cơ thể
Nội soi ống tiêu hoá: Sử dụng ông soi mềm để soi vào thực quản-dạ dày-tá tràng qua đường miệng, vào trực tràng-đại tràng qua hậu môn. Đối với ruột non, không thể soi bằng kỹ thuật soi mềm thông thường (vì ruột non quá dài và cuộn khúc) mà phải dùng nội soi viên nang hoặc kỹ thuật nội soi bóng đơn hoặc bóng đôi.
Nội soi niệu: Ống soi cứng đi qua lỗ niệu đạo có thể soi vào bàng quang và niệu quản. Nếu dùng ống soi mềm có thể lên đến bồn thận rẽ vào các ngóc ngách bên trong bồn thận.
Nội soi tai mũi họng, phế quản: Chuyên khoa tai mũi họng thường dùng ống soi cứng tiếp cận các khoang của vùng này. Muốn tiến sâu hơn để vào khí phế quản sẽ dùng ống soi mềm.
Nội soi đường mật: Có thể đưa ống soi mềm vào hệ thống ống dẫn mật đến tận trong gan qua ngã ngược dòng từ tá tràng đi lên hoặc các ngã khác như xuyên da qua gan, qua phẫu thuật.
Nội soi sản phụ khoa: Nội soi buồng tử cung, nội soi ối, nội soi ống tuyến vú, …
- Nội soi phẫu thuật: Nội soi qua những vết rạch vào cơ thể, thường gọi là phẫu thuật nôi soi. Phẫu thuật nội soi sử dụng hệ thống soi cứng hoặc bán cứng cùng với các dụng cụ thao tác để tiến vào các vị trí vốn không có khoảng trống trong cơ thể với mục đích quan sát và can thiệp phẫu thuật. Hiện nay phẫu thuật nội soi có khả năng tiếp cận rất nhiều vùng trong cơ thể để thay thế dần phẫu thuật mở cổ điển: soi ổ bụng, lồng ngực, cổ, vú, hông lưng, khớp, cột sống, não, …
Lợi ích của nội soi:
- Nhìn thấy được cơ quan bên trong:Hình ảnh thấy được qua nội soi là hình ảnh thực của cơ quan được quan sát, có thể phóng đại lên nhiều lần để dễ nhận định. Hình ảnh này có thể chụp lưu lại và in ra để nhiều bác sĩ cùng quan sát. Do đó nội soi là một trong những phương tiện chẩn đoán chính xác nhất.
- Lấy mẫu mô thử nghiệm mô học và tế bào học:Khi quan sát thấy thương tổn nào đó, bác sĩ nội soi có thể lấy nhiều mẫu mô ở nơi thương tổn (gọi là sinh thiết) gởi đến đơn vị giải phẫu bệnh để khảo sát vi thể về mô học, tế bào học. Giải phẫu bệnh là cách chẩn đoán xác định chắc chắn nhất.
- Can thiệp qua nội soi: Qua nội soi có thể thực hiện những thủ thuật hoặc phẫu thuật điều trị. Đây là cách điều trị nhẹ nhàng mà hiệu quả hơn so với phẫu thuật kinh điển.
Tóm lại, nhờ kỹ thuật nội soi hiện đại mà các bác sĩ đã thật sự chui sâu vào bên trong cơ thể con người để khám phá và điều trị bệnh một cách hiệu quả với sự xâm hại ít nhất.
NỘI SOI TIÊU HOÁ
Nội soi tiêu hoá là lĩnh vực được ứng dụng nhiều nhất của nội soi, trong đó thực quản-dạ dày-tá tràng đứng hàng đầu, kế đến là trực tràng-đại tràng, sau cùng là ruột non.
Thực quản-dạ dày-tá tràng: Nội soiđể chẩn đoán các bệnh viêm, loét, u, túi thừa, … ở thực quản, dạ dày, tá tràng bằng cách dùng ống soi mềm có đường kính 10 mm đưa qua miệng xuống thực quản đến dạ dày và tới phần đầu của tá tràng. Thủ thuật thực hiện khá nhanh chóng, không gây đau nhiều, không cần gây mê, không có hại sức khoẻ, bệnh nhân chỉ khó chịu một chút với cảm giác buồn nôn do ống soi chạm vào thành họng.
Khi bị các triệu chứng đau vùng trên rốn hoặc các rối loạn tiêu hoá trên như đầy bụng, chậm tiêu, ợ hơi, ợ chua, người ta thường chẩn đoán là viêm dạ dày và dùng thuốc điều trị viêm dạ dày. Tuy nhiên, tốt nhất là nên nội soi dạ dày tá tràng trước khi điều trị dạ dày để không bỏ sót các bệnh nguy hiểm như ung thư dạ dày. Ngoài ra, nội soi còn là phương tiện để lấy mẫu thử xác định nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori (HP). Xét nghiệm hơi thở có thể xác định nhiễm HP nhưng không thay thế nội soi được vì không quan sát được thương tổn ở dạ dày tá tràng. Hiện nay, tất cả các bệnh viện đa khoa từ tuyến tỉnh trở lên đều có trang bị nội soi dạ dày-tá tràng.
Nội soi dạ dày còn được dùng để tầm soát phát hiện ung thư dạ dày giai đoạn sớm có thể chữa khỏi hoàn toàn. Người có yếu tố nguy cơ là đối tượng cần phải được tầm soát như: bị viêm teo dạ dày hoặc thiếu máu ác tính, đã được cắt bán phần dạ dày, polyp dạ dày, trong gia đình có ung thư đường tiêu hoá, có triệu chứng rối loạn tiêu hoá thường xuyên. Nếu có điều kiện thì mọi người trên 50 tuổi nên soi dạ dày tầm soát trong một đợt kiểm tra sức khoẻ định kỳ.
Trực tràng-đại tràng: Nội soi để chẩn đoán các bệnh viêm, u, pôlýp, túi thừa ở trực tràng-đại tràng bằng cách ống soi mềm có đường kính 12 mm đưa từ hậu môn lên trực tràng và hết khung đại tràng, đôi khi qua được đoạn cuối ruột non vài chục centimet. Soi đại tràng khó hơn soi dạ dày vì đại tràng có nhiều chỗ gấp góc khó vượt qua. Bệnh nhân cảm giác khó chịu hơn do phải bơm hơi làm căng chướng ruột. Đôi khi cần gây mê toàn thân để bệnh nhân không cảm giác sợ và đau. Khả năng tai biến thủng đại tràng có thể xảy ra mặc dầu rất hiếm.
Khi bị các triệu chứng rối loạn thói quen đại tiện, rối loạn tính chất phân (thường xuyên đi phân lỏng hoặc bón, phân nhỏ dẹt), đặc biệt là phân có đàm nhớt lẫn máu thì nên gặp các bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật tiêu hoá để được khám và chỉ định soi đại tràng. Ngoài ra, cũng như dạ dày, soi đại tràng còn được dùng để tầm soát phát hiện ung thư đại tràng giai đoạn sớm. Đối tượng cần được tầm soát là: người có người thân (quan hệ huyết thống) bị ung thư đại-trực tràng hoặc ung thư phổi, buồng trứng, tử cung, hậu môn, người bệnh pôlýp đại tràng, viêm loét đại tràng. Tuỳ mức độ nguy cơ, soi kiểm tra mỗi năm hoặc mỗi 3 năm một lần. Người bình thường trên 50 tuổi cũng nên soi tầm soát mỗi 5 năm và xét nghiệm tìm máu ẩn trong phân mỗi năm.
Ruột non: Là vị trí nội soi khó tiếp cận nhất của đường tiêu hoá cho dù đi từ miệng hoặc từ hậu môn. Cũng may mắn là bệnh ở ruột non xảy ra ít hơn nhiều so với bệnh dạ dày và đại tràng. Có hai kỹ thuật đặc biệt để soi ruột non là nội soi viên nang và nội soi có bóng (bóng đơn hoặc bóng đôi).
- Nội soi viên nang dễ thực hiện, không gây khó chịu gì, chỉ cần bệnh nhân uống viên nang có gắn camera vào bụng và đeo máy thu tín hiệu bên mình đến khi viên nang được tống ra ngoài theo phân. Nhược điểm của kỹ thuật này là hình ảnh không rõ nét lắm, chi phí rất cao. Thêm nữa, viên nang không thể chủ động dừng lại để quan sát kỹ một vị trí nào đó khi phát hiện thương tổn.
- Nội soi có bóng: Ống soi mềm có bóng đơn hoặc bóng đôi có khả năng chủ động tiến sâu vào ruột non từ miệng xuống và từ hậu môn lên. Phối hợp cả 2 đường có thể cho phép quan sát toàn bộ ruột non. Kỹ thuật khá phức tạp, tốn nhiều thời gian và cần phải gây mê toàn thân.
Thông thường, nếu bệnh nhân có triệu chứng nghi ngờ thương tổn ở ruột non như xuất huyết tiêu hoá, rối loạn tiêu hoá không thấy được nguyên nhân ở dạ dày - đại tràng, nội soi viên nang được chỉ định. Khi nội soi viên nang phát hiện ruột non có thương tổn nghi vấn, sẽ thực hiện nội soi bóng đơn hoặc bóng đôi để xác định chẩn đoán.
Can thiệp qua nội soi:Can thiệp qua nội soi là dùng dụng cụ chuyên biệt đưa qua lòng ống soi đến vị trí thương tổn thực hiện những thủ thuật điều trị như cầm máu, cắt các u nhỏ, thắt tĩnh mạch giãn, lất sỏi mật, nong những chỗ hẹp lòng ống tiêu hoá, đặt stent làm thông đường tiêu hoá … Đây là những phẫu thuật xâm hại tối thiểu, không để lại sẹo, mang lại nhiều lợi ích trong điều trị. Can thiệp qua nội soi cũng như những can thiệp khác có thể xảy ra tai biến và biến chứng như chảy máu, thủng đường tiêu hoá, … nhưng không đáng kể so với lợi ích mà nó mang lại.
Tóm lại, bệnh đường tiêu hoá rất khó chẩn đoán và điều trị. Nội soi là phương tiện vô cùng hiệu quả để giải quyết vấn đề khó khăn này